Tiếc thay, tôi đã không được "tận mục sở thị" ngôi nhà sàn cổ nữa, vì cùng bất đắc dĩ gia đình anh đã phải bán đi. Anh kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa là người rút cuộc ngồi ở nhà sàn này trước khi nó bị dỡ bỏ. Anh nhớ, thi sĩ Trần đại đăng khoa ngồi bên cửa sổ nhìn ra sông Đà, đọc bài của một nhà thơ Triều Tiên viết về ngôi nhà của mình, đại ý rằng: "Nhà của tôi - nhà của mây - nhà của gió...". Nghĩ đến mà thấy tiếc, mà thấy nhớ ngôi nhà sàn đã mấy đời tiên nhân để lại. Chính thành thử, đôi khi Đinh Đăng Lượng lại ghé lên thăm ngôi nhà sàn của vợ chồng nhà thơ Văn Thao ở gần đó cho đỡ nhớ. Anh nói, ngày đó vì hai vợ chồng thường xuyên đi công tác nên chẳng thể tu sửa lại được mỗi khi ngôi nhà bị xuống cấp. Hơn nữa, vợ chồng anh cũng không đi kiếm được gianh nộp theo lệ làng ngày ấy, nên buộc phải bán đi để gom tiền xây ngôi nhà gạch cho các con, vì chúng đang ngày càng khôn lớn. Nghe đến đây, tôi chợt nghĩ: Suốt 35 năm công tác, lại làm đến chức Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy, sau đó còn hai năm giữ chức Chủ tịch trận mạc đất nước của tỉnh trước khi về hưu, sao anh không có một ngôi nhà ở trên thành thị mà lại về mảnh đất quê xưa. Không ngờ, điều thắc mắc của tôi đã động chạm tới một cõi thiêng của tâm cảm trong anh, vì người Mường luôn luôn ghi lòng tạc dạ lời của tổ tiên truyền lại: "Làm trai không sai bản xứ". Tức là đi đâu thì đi, nhưng cuối đời phải về lại cái nơi mình đã sinh ra, và khi chết hãy nằm tại quê hương. Thi sĩ đã sống đúng như thế. Hơn hai mươi năm làm Giám đốc Nhà máy Giấy Hòa Bình, anh đều đi về hằng ngày bằng xe máy. Sau này làm quan chức đầu ngành của tỉnh, có tiêu chuẩn ôtô nhưng anh vẫn đi xe máy hơn chục cây số về nhà, ăn cơm vợ nấu và trồng cây quả trong vườn nhà. Có nhẽ chất Mường "thâm căn cố đế" ấy đã làm cho thơ Đinh Đăng Lượng có chất riêng, hiển hiện màu sắc văn hóa vùng Mường Thàng, nơi quê cha. Những câu thơ của anh găm ngay vào trí nhớ của người đọc: Ước có màu xanh, trồng lấy màu xanh Lan man chuyện thơ ca, tôi bỗng nhớ tới chuyện có lần Đinh Đăng Lượng bị nhà thơ Hữu Thỉnh hốt nhiên "bắt" lên ngồi Chủ tịch đoàn trong Hội nghị Những người viết văn trẻ lần thứ 2 - năm 1983 - tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt - Xô. Nói là bị "bắt", nhưng thực ra đó lại là một vinh hạnh bất thần đến với cây bút trẻ xứ Mường ngày ấy. Anh cười khì vì nhớ như in cái ngày xưa, sao mà run thế, khi nghe thi sĩ Hữu Thỉnh gọi oang oác tên mình trên loa đài. Anh phải lên ngồi chủ toạ đoàn thay nhà văn Sa Phong Ba dân tộc Tày, đại biểu Sơn La, bị ốm không về dự được. Thế là cây bút trẻ Đinh Đăng Lượng, giải A thơ tỉnh Hà Sơn Bình khi ấy, được gọi lên thế chỗ. Hoa mắt, chân run như gà mắc tóc, Đinh Đăng Lượng có cảm giác lần trước hết rời núi xuống biển vậy. Mênh mang, sóng sánh, ào ạt đến ngỡ ngàng. Kể tới đây, Đinh Đăng Lượng đọc cho tôi nghe mấy câu trong bài thơ khi anh về thăm biển lần đầu: "Đôi mắt tôi chẳng tỏ đáy biển khơi/ Chỉ thấy sóng như luống cày của bố/ Mặt biển bằng bằng như nong phơi lúa/ Ngấn nước xanh chàm như áo mẹ tôi".
Tôi đột mỉm cười vì nhớ có người nhận xét, Đinh Đăng Lượng thật thà lắm, tính lại cẩn thận, làm gì cũng có sự chuẩn bị chu đáo, đúng như tác phong của một ông giám đốc ngày nào. Lại nhớ từ khi làm Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy năm 2001, thi sĩ còn kiêm thêm chức Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Hòa Bình nên anh thường sử dụng mấy cái cặp da liền để phân bố tài liệu cho đỡ lẫn lộn. Việc nào ra việc nấy, bản mỏng nào thuộc cuộc họp của ban, ngành này anh sắp đặt vào mỗi cặp riêng. Nhất là những bài phát biểu thì thôi rồi, càng phải cẩn thận, vì nếu không rất dễ chỉ đạo lộn lạo. Vậy nên, hôm nào phải đi họp mấy cuộc họp liền là hôm đó trong tay anh rủng rỉnh những cặp là cặp. Nhưng anh không bao giờ bị lộn cặp cả, thế mới tài. Ngoài công việc, hễ có dịp là Đinh Đăng Lượng lại tranh thủ làm thơ. Thơ anh đậm phong vị Mường và bao giờ cũng có những liên hệ về cái xứ cồng chiêng của mình. Khi tiễn con gái về Thủ đô làm dâu nhà người, anh viết: Mùa đông thiếu bếp nhà sàn Trong một tư liệu tổng kết những nhà thơ dân tộc thiểu số, phần tóm tắt tác giả, không hiểu các nhà soạn căn cứ vào đâu đã thống kê những bút danh không phải của Đinh Đăng Lượng, làm anh buồn mãi. Có bao giờ Đinh Đăng Lượng dùng bút danh đâu. Anh quan niệm đúng như thơ anh đã viết: Cha Mường đẻ con Mường phải thương lấy nó. Dù cho cái núm ruột Mường ấy khôn lớn hay dại dột ra sao, vẫn con mình, thuộc dòng máu xứ mình nên không việc gì phải thay tên đổi họ. Tôi tự dưng nhớ tới bài thơ "Tiếng nói" của Đinh Đăng Lượng in trên Tạp chí Văn nghệ Hòa Bình, số tháng 4-2013. Nhà thơ lên tiếng gọi con cháu hãy về quê: Này con trai, con gái Nhà thơ còn viết thêm: Tiếng của cha ông để lại Thế đó, nhà thơ chỉ sợ con cháu lên phố ở sẽ chẳng còn nhớ đến tiếng tiên tổ, nơi chúng được nuôi dưỡng bằng hạt lúa hạt ngô và lớn lên trong lời ru Mường ngọt tựa chim hót trong vườn nhà. Thi sĩ Vân Long đã viết về Đinh Đăng Lượng trong tập thơ chọn lọc của anh: "Khác với nhiều người, cứ thăng tiến là dễ thành hãnh tiến, dễ quên đi cội nguồn bần hàn của mình, Đinh Đăng Lượng lúc nào cũng đau đáu về vùng quê, về người mẹ nghèo nửa đời áo vá". Có nhẽ chính cho nên mà từ khi sinh ra đến giờ, thi sĩ luôn ghìm giữ bàn chân mình nơi quê nhà, đúng với nghĩa "Làm trai không sai bản xứ". Anh kể: Sau khi bán ngôi nhà sàn, cộng với số tiền dành dụm được, vợ chồng anh cùng con cháu đã tự tay đào đất, nung gạch, trộn vữa làm nên ngôi nhà hai tầng giờ. Không ít người gợi ý anh lên tỉnh thành, nhưng anh kiên quyết không nghe. Năm 2007, về hưu, Đinh Đăng Lượng dành thời kì chăm chút khu vườn nhà. Anh muốn sống và hưởng thụ những gì thực sự của mình, không háo những gì cao xa… Đang mạch câu chuyện, bất ngờ anh dẫn tôi lên sườn đồi phía sau nhà. Đó là một khu mộ chí của mấy đời gia đình anh được quy tụ về đây. Bên cạnh khu mộ còn có cây bồ quân đã già cỗi, dễ đến trăm tuổi. Thi sĩ nhớ lại cách đây 60 năm, khi ấy còn là một cậu bé 7 tuổi đã theo bà lên đồi để giữ túi cho bà leo lên hái quả bồ quân mang ra chợ bán lấy tiền mua gạo. Thi sĩ được cắp sách tới trường là nhờ công lao nuôi dưỡng ấy. Làm sao anh có thể rời xa… Khi chúng tôi quay về nhà, thật lạ, cây lộc vừng ở góc sân nở bừng những dải hoa tím tím. Tiếng chim họa mi hót lảnh lót. Thi sĩ Đinh Đăng Lượng đến bên cho chim ăn. Nhìn nhà thơ đứng dưới những chùm hoa lộc vừng, tôi chợt nhớ đến tập thơ "Bóng cây chu đồng" của anh, mới ngày nào được trao giải thưởng của UBND tỉnh Hòa Bình (2006). Đây cũng là năm anh được tiếp thu vào Hội Nhà văn Việt Nam. Tiếng chim họa mi mỗi lúc một ngọt. Trong tôi những câu thơ của chàng trai xứ Mường văng vẳng: Cây chu đồng rủ bóng cho trai Mường gái bản hát đối tìm nhau Hình tượng cây chu đồng tỏa bóng thời kì, thắp lên ngọn lửa khao khát chinh phục một thế giới đẹp nhãi, nằm trong tiềm thức người Mường xưa vẫn luôn cháy bỏng đến tận bây giờ... |