Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Ứng dụng CNTT trong đào tạo, nghiên cứu y học: phá cách Khúc hát đồng lòng.

Liệu có phải trong thành công đó, ông và các cộng sự đã ứng dụng tốt CNTT trong nghiên cứu, đào tạo? - Tôi thường nói với các anh em đồng nghiệp, nếu một ngày thiếu sử dụng thiết bị CNTT thì hiệu suất công việc của mình chỉ còn 1/3

Ứng dụng CNTT trong đào tạo, nghiên cứu y học: Khúc hát đồng lòng

GS Nguyễn Đình Tảo đang chuẩn bị sinh thiết phôi Đại tá GS.

Đội ngũ cán bộ giảng dạy cũng phải nâng trình độ CNTT và ngoại ngữ… * Vâng, đề tài "Nghiên cứu hình thái phôi sau sinh thiết để chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi” do GS mô tả tại hội thảo được đánh giá có tính thực tế cao. Phẫu thuật, Giải phẫu bệnh lý, mô phôi thai học, nhân trắc, nhân chủng, sinh học, di truyền.

Sau khi đục lỗ, cũng vẫn với thiết bị đó, có thể đo đạc các tham số biến đổi về hình thái phôi từ đó có thể đánh giá tác động của việc đục lỗ tới sự phát triển của phôi.

Sinh thiết phôi bằng tia laser là sử dụng tia laser, được điều khiển bằng phần mềm CNTT, để khoét một cái lỗ nhỏ trên màng trong tạo điều kiện tiện lợi cho phôi thoát màng, hao hao như chim tự khoét lỗ trên vỏ trứng để chui ra ngoài. CNTT đã ăn sâu vào mỗi việc làm bình thường của chúng tôi, đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học. Hội thảo cũng là lần đầu tiên, hai ngành y học và CNTT đồng lòng hợp tác chuyên sâu, để "khúc hát” vận dụng công nghệ thực tiễn ảo phục vụ đào tạo và huấn luyện y tế càng ngày càng hài hòa, vang xa.

Tỉ dụ như các mô hình, tiêu bản, xác ướp… Đây có thể xem là thách thức không nhỏ khi mà kinh phí đào tạo của nhiều trường còn eo hẹp, có thể khó đáp ứng yêu cầu. Nhiều bài giảng bởi thế rất sinh động, trực quan, tạo hứng thú cho người học và người giảng. * Xin cảm ơn GS! Thanh Lê (thực hiện). TS. Đề tài tôi báo cáo trong hội nghị nhằm đánh giá sự đổi thay hình thái phôi sau sinh thiết bằng tia laser.

Trong y học giờ, với người thầy thuốc, môn hình thái học có vị trí khôn cùng quan yếu. , Những môn học cơ sở này trang bị tri thức nền tảng, tương trợ đắc lực về chuyên môn cho sinh viên y khoa sau khi ra trường. Cố nhiên tôi cũng san sớt cái khó của các cơ sở đào tạo khi vận dụng CNTT trong giảng dạy, là phải có cơ sở hạ tầng tốt, đồng bộ và trang thiết bị máy móc.

Đây là một trong những đề tài chuyên sâu có vận dụng nhiều CNTT, gắn với đào tạo cao học hoặc tiến sĩ. Bản thân tôi cũng như các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giảng viên dự hội thảo đã bị vấn đặc biệt bởi các tham luận như "Xây dựng phần mềm khi học phẫu thuật vùng chi dưới tích hợp câu hỏi trắc nghiệm trực tuyến”, "sử dụng phần mềm WHO AnthroPlus trong nghiên cứu một số chỉ số nhân trắc của học trò THPT theo vùng sinh thái Nam Bộ”.

Phải làm tốt khâu giám sát chém đẹp, kiểm định ngay mới không để lọt lưới những trường dạy chay học chay, hoặc vẫn dạy và học kiểu đọc-chép. Nguyễn Đình Tảo với vai trò là thành viên Ban Chương trình cho biết, Hội thảo nhà nước về vận dụng CNTT trong đào tạo và nghiên cứu y khoa với chủ đề "phẫu thuật học và Mô - phôi thai học” do Hội Hình thái học VN cùng Viện CNTT – ĐH quốc gia Hà Nội tổ chức, cuộn gần 1.

Người học có thể học trực tuyến, không nhất thiết lên lớp lối truyền thống. * GS nghĩ thế nào khi gần đây, dư luận lên tiếng về việc nhiều địa phương đào tạo nhân công ngành y khá dễ dãi? - Đây là vấn đề rộng liên tưởng tới quy hoạch màng lưới đào tạo và kiểm định chất lượng các cơ sở đào tạo.

Riêng với môn hình thái học, để dạy và học tốt đòi hỏi các cơ sở đào tạo y học phải có một khối lượng công cụ, vật liệu phục vụ giảng dạy khá lớn. * Bởi thế vận dụng CNTT với những phần mềm tương trợ cho việc dạy, học đang trở thành thiết bị hữu hiệu cho đào tạo, nghiên cứu y khoa? - Đúng thế, những phần mềm ứng dụng chúng tôi đã có và sẽ "đặt hàng” bên CNTT hoàn toàn thay thế được những dụng cụ, vật liệu trước vẫn dùng để giảng dạy các môn phẫu thuật học, Mô - phôi thai học.

000 chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giảng viên các trường ĐH y dược toàn quốc tham dự.