Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2013

Di dân, nhìn từ hai phía


Những cánh rừng bị đốt cháy để lấy đất trồng

1. Với Hà Hội, sự di dân- hiểu theo nghĩa nào đó, là rất lớn và chưa ngừng lại.

Rõ nhất là với khu phố cổ đang nóng lên từng ngày với kế hoạch giãn dân đợt 1. Kế hoạch giãn dân phố cổ bản chất là di một lượng không nhỏ hộ gia đình từ khu vực này ra ngoại thành- những khu thành thị mới. Kế hoạch đó đã được UBND TP. Hà Nội ấp ủ từ lâu, rốt cuộc hình thành đề án di dời hơn 6.500 hộ dân với khoảng 26.200 người. Tuổi 1 sẽ chuyển di hơn 1.500 hộ dân sang khu thị thành Việt Hưng (Long Biên- Hà Nội). Đối tượng di dời đợt 1 gồm các hộ sống trong các di tích, trường, công sở, những số nhà đông hộ và nhà cổ có giá trị đặc biệt cần bảo tàng.

Mục tiêu của đề án nhằm giảm mật độ dân cư ở khu vực phố cổ từ 823 người/ha xuống còn 500 người/ha. Với những nhà đã thực hiện giãn dân, phải đảm bảo chỉ tiêu diện tích nhà ở tối thiểu 25m2 sàn/người (là chuẩn diện tích nhà ở bình quân vào năm 2020).

Câu chuyện giãn dân phố cổ đã "xưa như trái đất” nhưng nay đã đích thực nóng vì người trong cuộc lại rất lo âu. Thứ nhất, nói như ông Nguyễn Đình Chiêu (phường Hàng Đào) trong lần chủ toạ UBND TP. Hà Nội Nguyễn Thế Thảo tiếp xúc cử tri, thì những hộ nghèo đang rất lo lắng vì sẽ lấy tiền đâu ra để mua nhà tại nơi ở mới khi mà hàng ngày phải chạy ăn từng bữa. Cho dù thành phố có bồi thường diện tích gấp đôi đi chăng nữa thì họ cũng vẫn phải bỏ tiền ra mua diện tích dôi dư. Bởi, hầu hết những hộ phải chuyển di khỏi phố cổ diện tích đang ở rất hẹp, hay nói đúng hơn là khôn cùng hẹp, phổ thông là mức 15-20m2/hộ. Với căn hộ nơi tái định cư, hơn 50m2, lấy tiền đâu bù vào phần diện tích rộng hơn sau khi đã trừ phần diện tích bồi thường? Thứ hai, sinh kế ở nơi ở mới là gì? Rất nhiều người phố cổ "vật vờ” cũng đủ sống, sang chỗ mới không bán mua, không "chỉ chỏ”, không khuân vác, không sang sửa vặt được cho ai, thế là giảm thu nhập. Con cháu đi học cũng xa hơn, mình đi làm cũng xa hơn, tiền xăng xe, mất thời kì thì ai tính cho.

Trong sự di dân nép này, chính quyền cần đảm bảo quyền lợi cho người dân. Họ đã hy sinh nhiều quyền lợi để trả lại cho Thủ đô một không gian phố cổ đúng nghĩa thì họ phải được ưu đãi, đó là quan điểm của nhiều chuyên gia xã hội học. Vì rằng, nếu chính sách không tốt với những hộ phải di dời đợt 1 rất có thể sẽ không "ép” được những hộ phải di dời đợt 2. Và biết đâu, đi xong rồi họ lại thầm lặng trở về, chui vào lại ở nơi chật chội trước kia. Nếu thế, tình hình sẽ rất phức tạp.

Chuyện này về thực chất cũng giống như chuyện di dời dân để làm lòng hồ thủy điện. Chính quyền đã cấp hẳn cho nhà mới, ruộng nương, cho không lúa gạo để sống cả năm trời… thế nhưng không ít khu tái định cư chỉ sau 2-3 năm là đã trống hơ trống hốc, người ta lại tìm cách "trở về mái nhà xưa”, sống lay lắt bên hồ nước mênh mông. Thủy điện Hòa Bình, thủy điện Sơn La đã chứng minh điều đó. Thực thụ thì người buộc phải di dời đã không tìm được điều kiện sống tại nơi ở mới. Khi họ trở về nơi mình đã ra đi hoặc là di cư tự do đi đâu đó cũng khó trách họ, bởi trong một chừng đỗi nào đó người di dời nghĩ rằng họ bị "mang con bỏ chợ”.

Quay lại câu chuyện di dân trong mục đích của chính quyền (trừ thời phong kiến ra), thì tổ quốc có những cuộc di dân rất lớn, trong đó có thành có bại.

Sau Hiệp định Geneve 1954, vài trăm ngàn cán bộ, đồng bào miền Nam tụ họp ra Bắc. Ngược lại, cũng có tới cả triệu đồng bào từ Bắc vào Nam vì lúc bấy giờ bộ máy tuyên truyền của anh em nhà Ngô Đình Diệm cho rằng "Chúa đã vào Nam” nên bà con đi theo. Hai dòng di dời ngược chiều này đều ổn định được đời sống cho người di trú.

Sau đó không lâu, tại miền Bắc, có phong trào tình nguyện, phong trào di dân từ miền xuôi lên miền ngược khai thác. Ý nghĩa của nó là rất hăng hái nhưng cũng phát sinh nhiều vấn đề. Sau năm 1975, lại có một đợt di dân hùng hậu nữa từ Bắc vào Nam: đó chính là di dân Hà Nội vào Lâm Đồng, thành lập hẳn một huyện mang tên Lâm Hà- có tức là Lâm Đồng và Hà Nội.

Nhắc lại vài điểm mốc di dân để thấy rằng, hóa ra chúng ta rất có kinh nghiệm di dân. Vững chắc từ những cuộc di dân dưới sự tác động, xếp đặt của chính quyền người ta đã rút ra được nhiều bài học. Nhưng thực tế cho thấy đây vẫn là việc nan giải, chỉ riêng việc giãn dân phố cổ thôi mà đã "toát mồ hôi”.

2. Di dân theo kế hoạch đã khó, lại còn khó hơn khi "đối phó” với nạn di dân tự do.

Lối di dân này diễn ra ở nhiều địa phương nhưng mạnh nhất là đồng bào dân tộc thiểu số từ vùng núi cao phía Bắc di cư vào Tây Nguyên. Một vài chục hộ "vô Nam” rất phổ quát; cả bản, cả xã đùng đùng kéo nhau đi cũng không hiếm. Thực tại ấy diễn ra đã hơn 20 năm, lúc nóng, lúc nguội. Tới nay, sau một thời gian êm ả, thì lại có vẻ "nổi sóng” một lần nữa.

Tây Nguyên có 5 tỉnh, thì cả 5 đều vướng chuyện dân di cư tự do.

Đăk Lăk nằm ở trung tâm Tây Nguyên, có diện tích thiên nhiên 13.000 km2, với 47 dân tộc thiểu số anh em sinh sống. Với địa hình là vùng đồi lượn sóng, đất đỏ bazan phì nhiêu, khí hậu ôn hòa… nên cư dân từ nhiều vùng, miền, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc đã di trú tự do tới để làm ăn sinh sống. Bên cạnh Một vài điểm được, thì mặt "mất” là rất lớn, cụ thể là gây xáo trộn, phá vỡ quy hoạch đích phát triển kinh tế, tầng lớp của địa phương, đặc biệt là việc quy hoạch, xếp đặt, phân bổ lại dân cư trên địa bàn.

Nhưng đó là chuyện vĩ mô, còn chuyện nhãn tiền thì rừng bị tàn phá, kể cả rừng đặc dụng, rừng đầu nguồn, để lấy đất làm nhà, lấy đất canh tác. Duyên cớ chính là chính quyền sở tại không chấp nhận là công dân của mình, nên đã không tạo điều kiện sống cho họ.

Người thiên cư tự do đến Đăk Lăk (và không chỉ Đăk Lăk) không thể chiếm nhà mặt đường ở các đô thị, thị xã, thị trấn- mà phải dắt nhau vào rừng nơi thưa người, điều kiện sống rất khó khăn để mà lập nghiệp. Đã bỏ nhà cửa, quê hương ra đi, họ nhất mực phải chiếm bằng được một vuông đất đủ để ở và để cấy trồng. Bản tính của vấn đề là một cuộc chống chọi sinh tồn rất khắc nghiệt.

Với nơi họ ra đi, đó là những cánh rừng nghèo kiệt, đất đai bạc màu, cấy cày trồng tỉa quanh năm cũng không đủ ăn. Mùa hè thì nóng như nung, mùa đông thì rét cắt da cắt thịt; con cái không thấy ngày mai, ăn đói mặc rách thì làm gì dám nghĩ tới ngày mai. Họ ra đi với khát vọng đổi đời, và thực tại cuộc sống buộc họ phải ra đi. Không phải người ta nấu nung vào Tây Nguyên là để phá rừng, chiếm đất, đơn giản chỉ là để tồn tại, cuộc sống kinh tế bớt gian nan hơn. Nhưng do họ tự ý đi, tự tiện đến nên chính quyền ở cả hai đầu đều "né”, không tự nhận lấy nghĩa vụ của mình. Người dân đã không được hỗ trợ từ nơi đi đành rằng một nhẽ, nhưng nơi đến không được tương trợ thì thôi, đôi khi lại còn bị coi như những kẻ tội đồ, phá hoại. Từ đó, để sinh tồn, không ít người di cư tự do đã trở nên lâm tặc, hoặc tiếp tay cho lâm tặc. Họ phá rừng, trở thành những kẻ buôn lậu… một cách cùng bất đắc dĩ.

Thực tại cho thấy, khi nào chính quyền nơi đến thiếu nghĩa vụ, vô bổn phận, đứng ngoài cuộc thì nơi đó nảy rất nhiều hậu quả xấu từ người thiên cư tự do.

Xin dẫn ra số liệu hai địa điểm di dân tự do để thấy tình hình phức tạp thế nào, nếu chính quyền không vào cuộc.

Xã Cư Pui (huyện Krông Bông, Đăk Lăk)), cách dây 15 năm thôn Ea Lang (xã Cư Pui) được thành lập, với 100 hộ dân di cư tự do. 10 năm sau, con số này đã tăng lên hơn 500 hộ. Huyện phải đề nghị tách thôn Ea Lang thành 4 thôn thuộc xã Cư Pui. Nhưng làn sóng nhập cư tự do vào đây vẫn tiếp diễn. Năm 2012, huyện lại phải nối kiến nghị thành lập xã mới.

Còn tại huyện Ea Súp (cũng thuộc tỉnh Đăk Lăk), từ năm 2009 đến nay huyện đã phải chuyển đổi hơn 40ha rừng thành đất ở, đất sinh sản và thành lập thôn 15 tại xã Cư Kbang, để đưa 500 hộ với khoảng 3.900 khẩu vào khu định canh định cư. Tuy được tương trợ nhưng đời sống của người thiên di rất khó khăn. Tuy nhiên, lãnh đạo huyện Ea Súp nhận định, tình trạng di trú tự do vẫn tiếp diễn mỗi càng ngày càng đông hơn.

Cái khó về miếng ăn hàng ngày, chỗ học cho con cháu, bệnh viện để chữa bệnh… với người di cư tự do là đương nhiên; nhưng về lâu về dài còn rất nhiều khó khăn đang đợi họ. Làm sao nhập được hộ khẩu. Làm sao để chính quyền hợp lệ hóa đất rừng (sau khi họ phá xong, hoặc được giao) thành đất nông nghiệp, đất thổ cư. Chính quyền "né”, vì bản thân họ cũng vướng về các quy định mang tính pháp lý.

Cũng có thể cứ liệu thêm huyện Đam Rông (tỉnh Lâm Đồng)- 1 trong 62 huyện nghèo nhất nước, nhưng cũng lại phải thu nạp một cách "bất ngờ” lượng lớn người di trú tự do. Trong hai năm 2004-2005, huyện đã phải bố trí 200 hộ đồng bào Mông từ Hà Giang, Lào Cai vào 2 thôn 4 và 5 của xã Rô Men. Và từ năm 2009 đến đầu 2013, lại phải "tiếp nhận” 110 hộ, với trên 500 nhân khẩu đồng bào Mông thiên di từ các tỉnh phía Bắc đưa về xã Phi Liêng. Cuối tháng 6 vừa qua, lại có thêm 47 hộ dân đồng bào Mông, Dao, Tày, Nùng, Sán Chỉ, với 237 nhân khẩu ở các tỉnh Bắc Giang, Tuyên Quang, Điện Biên, Lào Cai, Quảng Ninh thiên di đến xã Liêng S’rônh- là khu vực rừng đầu nguồn có vai trò phòng hộ hiểm yếu. Như vậy, những cánh rừng đầu nguồn hiểm yếu này đang đứng trước nguy cơ bị triệt hạ.

Theo chính quyền sở tại, trên địa bàn huyện Đam Rông tại thời điểm này, còn có trên 300 hộ dân di trú sinh sống len lỏi trong rừng. Họ thường đến các nơi rừng phòng hộ đầu nguồn chặt phá làm nương rẫy. Do vậy, cùng với sự gia tăng về số hộ dân di cư tự do cũng đồng nghĩa với giảm diện tích rừng.

3. Như vậy, vấn đề thiên cư tự do đã tồn tại như một thực tại; cũng như việc giãn dân, chuyển dân có mục đích vậy. Bản chất vấn đề là bước ngoặt đời người từ chỗ này sang chỗ khác, là điều kiện sống; là trách nhiệm của chính quyền cả nơi đi lẫn nơi đến.

Nếu có sự "mè nheo” của người phải rời bỏ "chốn xưa” đi chăng nữa, hoặc họ có gây ra hậu quả nào đó thì cũng cần nhận được sự cảm thông; quan trọng nhất là sự dám nhận trách nhiệm của chính quyền, lo cho dân. Đương nhiên, người dân cũng không nên "làm khó” chính quyền, đã đốt rừng lại còn đòi hỏi này, nọ thì không nên. Vấn đề phải được nhóng từ hai phía.

Tuy vậy, thì dư luận vẫn cho rằng, để việc di dân không tạo ra sự xáo trộn lớn trong xã hội, từng địa phương và cũng không làm cho quá nhiều người lâm vào tình thế khó khăn, đẵn phải là vai trò của chính quyền. Mà điều đó cho tới nay vẫn không thật đầy đủ.

NAM VIỆT