Vào giữa mùa hè năm 2013, giới điện ảnh họp nhau lại để bàn về “Dự thảo chiến lược phát triển điện ảnh nước nhà đến năm 2020, tầm nhìn 2030”. Đây là chủ đề quá nóng, quá hay và quá hợp thời. Có lẽ do vậy, nó được tổ chức ở những hai nơi: Hà Nội và TPHCM. Có đủ mặt anh hào trong làng điện ảnh nước nhà phía Bắc do đang nhàn rỗi, nhưng không nhiều người có danh ở phía Nam do đang bận giữ cho điện ảnh nước Nam tồn tại. Mục đích có nhẽ là để tận thu, cho phải đạo, những ý kiến không mới của những người cũng không cần mới. Cho nên, vào cuộc hội thảo một ngày ở phía Nam, ông Vương Duy Biên - Thứ trưởng Bộ Văn hóa - thông báo - Du lịch đã cổ vũ các đại biểu cố kết thúc trong buổi sáng. Cách xây dựng chiến lược nói chung và chiến lược của ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo đầy đặc thù như điện ảnh sẽ chẳng thể đi theo con đường hành chính và bao cấp. Tình hình thị trường phim Việt Nam hiện như thế nào? Không cần nói cũng biết: khá âm u. Theo số liệu thống kê, có nhẽ theo cách nhìn lạc quan của Cục Điện ảnh, thì tỷ lệ phim Việt Nam so với phim nước ngoài được trình chiếu là 13,38%. Tại các rạp chiếu phim quốc gia, số buổi chiếu phim Việt là 31,6% với 40% người xem. Còn ở các rạp phim tư nhân, con số ứng là 34% và khoảng 30%. Nói chung, khoảng 70% khán giả Việt không xem phim Việt khi phải ra rạp bỏ tiền mua vé. Còn xem phim Việt không mất tiền, thì có nhẽ họ cũng chẳng đi trừ ở vùng sâu, vùng xa. Tức thị phim Việt nói chung không dùng để bán, khó để cho và rất kén khán giả. Để giải quyết tình hình, các đề xuất khá là kinh điển. Đầu tiên vẫn là nguồn nhân lực. Một số đạo diễn như ông Lê Hoàng khẳng định: Máy móc trong điện ảnh lạc hậu rất nhanh, nhưng đắt tiền. Với số lượng phim sinh sản hàng năm, chắc chắn không dùng hết công suất, nên đề nghị tăng cường cử người đi đào tạo hào kiệt điện ảnh ở nước ngoài, chừng 10 người/năm. Có thể là cử đi Nga cho rẻ vì ở đó chỉ tốn khoảng 10 nghìn USD/học sinh. Ông này nói chung theo quan điểm cách làm phim thì đâu chẳng như đâu, miễn sao không ở Việt Nam. Ông khác, Đào Bá Sơn, đề xuất cử đi Hàn Quốc học ngành sản xuất phim vì đây là khâu quan trọng góp phần phát triển điện ảnh. Có vẻ những ý kiến không thể hiện là tầm nhìn chiến lược lắm mà đơn giản chỉ là thấy gì nói nấy. Các nhà phát hành thì thực tế hơn khi gay gắt kiểu như phát biểu của ông Trần Việt Hùng - Tổng giám đốc Công ty Cổ phần đầu tư điện ảnh Vina:“Khán giả phải được ăn cái người ta thích, chứ không phải ăn cái người ta bắt ăn”. Một luận điểm tuy khi nào cũng đúng, nhưng đủ để giải đáp cho nhiều đạo diễn nước nhà vốn hay than phiền người xem Việt Nam thiếu hiểu biết về nghệ thuật để cảm thụ phim của họ. Rạp chiếu phim cũng là cái họ yêu cầu tăng cường. Có điều, họ muốn giá vào rạp phải rẻ. Bao lăm là rẻ? Khoảng 10-20 nghìn đồng trong khi lúc này giá vé vào rạp khoảng 100 nghìn đồng và chỉ giai tầng trung lưu và người đô thị mới có khả năng chi trả. Điều này có lẽ không tưởng khi mà giá đất cứ cao như bây giờ và tổn phí ngoài luồng để nuôi các bộ máy công vụ vẫn cứ nhiều như lúc này. Vậy nên, quan điểm rất dân túy này, tuy nhìn tới thị trường, nhưng thực tại lại phi thị trường. Còn các đề xuất có tính kỹ thuật kiểu như thay đổi định dạng phim chiếu rạp từ phim nhựa 35mm sang định dạng kỹ thuật số là vấn đề mà Cục Điện ảnh coi là bức thiết, nhưng giám đốc phát hành của Megastar lại cho biết: Cục Điện ảnh chỉ duyệt bản nhựa hoặc DVD. Song, các studio lớn lại không cho phép chuyển kỹ thuật số sang DVD vì nhiều lý do, trong đó có vấn đề bản quyền. Còn để in một bản ở định dạng internegative sang phim nhựa nộp cho Cục sẽ hết khoảng 42 nghìn USD. Trong khi đó, cuối năm 2013, các nhà sản xuất phim Mỹ sẽ chấm dứt sinh sản phim nhựa. Hoặc là yêu cầu của đại diện Sở VH-TT-DL Đà Nẵng bỏ việc cấp phép quay phim tại địa phương vì cho rằng: Khi đã có cơ chế hậu kiểm, thì điều này không cấp thiết nữa. Thế thì chúng ta đã có đóng góp gì cho chiến lược phát triển điện ảnh nước nhà? Hay bản chiến lược này lại sẽ theo gót các bản chiến lược của các ngành khác được lập ra như chiến lược phát triển công nghiệp ôtô chẳng hạn, chỉ để biện minh cho sự tồn tại của các viện chiến lược đang góp mặt ở mọi ngành, mọi địa phương để cho mọi người thấy rằng: Với tư cách nhà quản lý cấp cao chúng tôi cũng biết có tồn tại thuật ngữ nghe rất oai, gọi là chiến lược. Để rồi sau đó, cái cần làm trước hết là không theo chiến lược. Vì nếu theo đó sẽ chẳng bao giờ đi đến đích cao cả mà chiến lược đã định ra? Thế mà xây dựng một bản chiến lược nghiêm túc phát triển công nghiệp điện ảnh Việt Nam lại là công việc rất nóng, rất hay và rất hợp thời. Rất nóng, vì sau hơn nửa thế kỷ tồn tại, điện ảnh bao cấp đang trong cơn suy thoái nặng nề và không còn hy vọng hồi phục. Vì nhiều lý do, nhưng có lẽ trước nhất nền điện ảnh đó không đề đạt cuộc sống thực như nó phải có, mà phản ánh cuộc sống như quan niệm của một số nhà quản lý muốn cuộc sống phải như thế. Cái tốt, cái xấu, cái cần lên án như định dạng phải thế. Chính cái khuôn mẫu gượng, thiếu nhân văn đó đã tước bỏ khỏi người đạo diễn, diễn viên mọi tư duy sáng tạo và niềm vui được sáng tạo. Nếu đọc hồi ký của diễn viên điện ảnh nổi tiếng một thời - Lê Vân - sẽ cảm nhận được nỗi khổ đau tột độ khi không muốn xem lại những cuộn phim mà mình từng là nhân vật chính. Nên cần có ngay chiến lược xây dựng lại nền điện ảnh quốc gia, cái khăng khăng phải có với sơn hà gần 90 triệu dân đang đương đại hóa và vẫn nghĩ rằng mình có bản sắc văn hóa dân tộc mặn mà. Rất hay, vì công nghiệp điện ảnh là ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo. Ở đó có sự pha trộn giữa những gì sáng tạo nhất mà con người có thể hình dong được với những gì hiện thực nhất của đời sống hàng ngày. Người ta đến rạp xem phim không để nhìn cái hàng ngày mà là xem cái hàng ngày đã được khái quát hóa qua ngôn ngữ của nghệ thuật thứ bảy. Việc làm ra chiến lược đó đầy những tình tiết bất ngờ và cả những toan tính không giống ai. Cứ nhìn sự cất cánh của điện ảnh Hàn Quốc thì rõ: một cách bộc lộ văn hóa Á Đông bằng điện ảnh phục vụ cho người xem ở các nước đang phát triển đã được các nhà chiến lược xứ Hàn thiết kế một cách táo tợn và chắc tay như thế nào. Chiến lược điện ảnh nước nhà cũng là sự thử thách đầy hứng khởi cho những người quan tâm đến hiện đại hóa và phổ cập văn hóa dân tộc cho 20 năm tới. Quá hay để những người làm điện ảnh tư duy về nó rất hợp thời. Vì kinh tế Việt Nam đang khủng hoảng nặng nề và phát triển công nghiệp điện ảnh như một nền kinh tế mũi nhọn trong 20 năm tới sẽ là hướng đi có tính đột phá và có cơ sở vì văn hóa chúng ta rất đặc sắc: lịch sử chiến tranh và mở đất lâu dài, sự hấp thu và nội địa hóa nhiều tôn giáo khác nhau và chịu ảnh hưởng của những nền văn hóa lớn rất khác nhau từ Ấn độ, Trung Quốc đến Pháp hay Mỹ. Sự thăng trầm của thân phận con người cùng những trải nghiệm của họ qua biết bao sự kiện. Trong khoảng thời kì lịch sử lâu dài như thế đủ để dựng lên những bộ phim đi vào lòng người. Cứ xem người Mỹ hay người Pháp phải cất công làm Bao nhiêu phim về xứ Đông Dương xa xăm cũng đủ rõ. Nhưng phim của họ hay và... Xa lạ, không đủ sức thuyết phục người dân ở các nước đang phát triển. Thế thì Việt Nam sao lại không có chiến lược điện ảnh lách vào khe hở đó để thỏa mãn nhu cầu của rất nhiều người ở Đông Nam Á, châu Á và nhiều nơi khác về một sự biến đổi tầng lớp đầy trắc trở, dữ dội, khúc mắc và không ít ngọt? Nhưng đích của chiến lược phát triển điện ảnh nước nhà đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là gì? Các bước đi của chiến lược đó như thế nào lại là vấn đề ít được đề cập đến nhất trong các cuộc hội thảo xây dựng chiến lược điện ảnh của Bộ Văn hóa vừa qua. Xem ra, cách xây dựng chiến lược nói chung và chiến lược của một ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo đầy đặc thù nói riêng sẽ không thể đi theo con đường hành chính và bao cấp. Cách thức xây dựng chiến lược đó tối đa chỉ cung cấp được những bao thơ ăn trưa nghèo nàn, họp một buổi khai là hai cùng dư vị bẽ bàng cho những người nghệ sĩ tài giỏi, cho những nhà quản lý có tư cách đến dự họp để nói về những cái mà trong thâm tâm họ không bao giờ nhầm đó là chiến lược.
Họp đã xong. Chiến lược đang được soạn thảo. Tình trạng của Điện ảnh Việt Nam hiện giống như trong truyện ngụ ngôn: đầy dục tình thô, đầy bí hiểm và đôi khi có phim xem được. Có điều, khác với sự dễ dàng được chúa ban cho có bầu của cô nữ sinh, đã lâu lắm rồi ở nước ta không có sản phẩm nào có thể đáng gọi là phim, trừ phi những phim nức danh về chán ngán tại Liên hoan phim quốc tế Hà Nội, nhưMùa Hè Lạnh, Cát Nóngmới được công chiếu, có thể gọi là phim. |